Friday, June 13, 2014

Lịch sử ung thư (7)

Phỏng dịch từ bài The History of Cancer from NCI. Một số thuật ngữ y học có thể không sát do người dịch không thông thạo về y học, bạn đọc có thể tìm đọc bản gốc tại website của NCI.

Sự tiến triển của trị liệu: miễn dịch học trị liệu

Hiểu biết sâu hơn về sinh học của tế bào ung thư đã đưa đến sự phát triển các nhân tố sinh học bắt chước một vài tín hiệu tự nhiên mà cơ thể dùng để điều khiển sự phát triển của tế bào. Các thử nghiệm lâm sàng đã cho thấy loại trị liệu ung thư này, gọi là biological response modifier (BRM), sinh học trị liệu (biological therapy, biotherapy), hoặc miễn dịch trị liệu, tỏ ra hiệu quả với một vài loại ung thư.

Một vài nhân tố sinh học, xuất hiện tự nhiên trong cơ thể, này có thể tạo thành trong phòng thí nghiệm. Ví dụ như interferons, interleukins hoặc các cytokines khác. Các chất này được đưa vào bênh nhân để mô phỏng hoặc tác động lên hệ miễn dịch tự nhiên. Chúng thực hiện tác động đó hoặc bằng cách trực tiếp thay đổi sự phát triển của tế bào ung thư, hoặc tác động gián tiếp đến các thế bào khoẻ mạnh có tác dụng kiểm soát ung thư.

Một trong số những ứng dụng gây xao động nhất của liệu pháp sinh học đến từ việc xác định các mục tiêu trên [tế bào] khối u, gọi là các kháng nguyên, và hướng một kháng thể đến mục tiêu đó. Phương pháp này được sử dụng lần đầu tiên để tìm các khối u và chẩn đoán ung thư, và gần đây hơn đã được dùng để tấn công các tế bào ung thư. Sử dụng công nghệ được phát triển vào những năm 1970, các nhà khoa học có thể sản xuất kháng thể đơn dòng (monoclonal antibodies) hàng loạt đặc thù hướng đến các thành phần hoá học của tế bào ung thư. Những tinh chỉnh trong các phương pháp này, sử dụng công nghệ DNA tái tổ hợp (recombinant DNA technology), đã cải thiện hiệu quả và giảm thiểu các hiệu ứng phụ của liệu pháp. Những kháng thể đơn dòng đầu tiên dùng trong trị liệu, rituximab (Rituxan) và trastuzumab (Herceptin) được khuyến khích vào những năm 1990 để trị, tương ứng, u bạch cầu và ung thư vú. Kháng thể đơn dòng ngày nay được dùng thường xuyên để trị một số loại ung thư, và phần nhiều hơn còn đang được nghiên cứu.

Các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu các vaccines thúc đẩy hệ miễn dịch của cơ thể phản ứng với các tế bào ung thư. Ví dụ, một nghiên cứu u bạch cầu năm 2009 quan tâm đến vaccine cá nhân (personalised vaccine) tạo thành từ mô của khối u của mỗi bệnh nhân. Kết quả thu được khả quan, các bệnh nhân được nhận vaccine có thời gian sống không mang bệnh (disease-free life time) lâu hơn.

Năm 2010, FDA khuyến khích Sipuleucel-T (Provenge), một vaccine ung thư cho ung thư tiền liệt tuyến di căn và kháng hormone (metastatic hormone-refractory prostate cancer) (ung thư tiền liệt tuyến đã di căn và không phản ứng với liệu pháp nội tiết nữa). Không giống như các vaccine mang tính phòng ngừa, Provenge thúc đẩy khả năng tấn công các tế bào ung thư trong cơ thể của hệ miễn dịch tự nhiên. Liệu pháp này đã giúp cho một vài nam bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt sống dài hơn, mặc dù nó không chữa khỏi bệnh. Điều này là một bước tiến quan trọng trong trị pháp ung thư.

(còn tiếp)

No comments:

Post a Comment