Friday, June 13, 2014

Lịch sử ung thư (6)

Phỏng dịch từ bài The History of Cancer from NCI. Một số thuật ngữ y học có thể không sát do người dịch không thông thạo về y học, bạn đọc có thể tìm đọc bản gốc tại website của NCI.

Sự tiến triển của trị liệu: hoá trị liệu

Trong suốt chiến tranh thế giới lần thứ Hai, cán bộ hải quân phơi nhiễm với hơi cay (mustard gas) trong hoạt động quân sự được nhận thấy là có các biến đổi độc hại ở tế bào tuỷ xương sinh máu. Trong cùng thời gian đó, quân đội US đang nghiên cứu một số hoá chất liên quan đến hơi cay để phát triển các vật liệu hiệu quả hơn cho chiến tranh và cũng phát triển các định mức bảo vệ. Trong tiến trình của công trình này, một hoá chất với tên hơi cay nitrogen đã được nghiên cứu và nhận thấy có tác dụng chống lại loại ung thư lymphoma ở các hạch bạch huyết. Hoá chất này đóng vai trò là mô hình cho một chuỗi các hoá chất tương tự nhưng hiệu quả hơn (gọi là alkylation agents) tiêu diệt các tế bào ung thư phát triển nhanh bằng cách phá huỷ DNA của chúng.

Không lâu sau phát hiện của hơi cay nitrogen, Sidney Farber từ Boston đã minh hoạ rằng aminoterin, một hợp chất liên quan đến vitamin folic acid, có thể thuyên giảm [lượng bạch cầu-ND] ở trẻ em bị acute leukemia. Aminoterin vô hiệu hoá một phản ứng hoá học cốt yếu trong tổng hợp DNA. Hợp chất đó là tiền thân của methotrexate, một thuốc chữa ung thư được sử dụng thường xuyên hiện nay. Từ đó, nhiều nhà nghiên cứu đã phát hiện các chất thuốc vô hiệu hoá các chức năng khác nhau trong sự sinh trưởng và tái tạo của tế bào. Kỷ nguyên của hoá trị liệu (chemotherapy) bắt đầu.

Ca ung thư di căn lần đầu tiên đã được chữa trị vào năm 1956 khi methotrexate được dùng để chữa một khối u hiếm gọi là choriocarcinoma. Qua nhiều năm, thuốc hoá trị liệu (chemo) đã chữa trị thành công nhiều trường hợp. Ngăn chặn dài hạn và thậm chí chữa khỏi ở nhiều bệnh nhân Hodgkin hoặc ALL ở trẻ em (acute lymphoblastic leukemia) với hoá trị liệu lần đầu tiên được báo cáo vào những năm 1960. Chữa trị của ung thư tinh hoàn được chứng kiến trong thập kỷ tiếp theo. Nhiều loại ung thư khác có thể được kiểm soát với hoá trị liệu trong thời gian dài, dù cho chúng không thể được chữa khỏi. Ngày nay, một vài hướng tiếp cận đang được nghiên cứu để cải thiện hoạt động cũng như giảm thiểu các hiệu ứng phụ của hoá trị liệu. Trong đó có:

  • Chất thuốc mới, kết hợp của các loại thuốc, kỹ thuật chuyển thuốc [đến khối u] mới.
  • Các hướng tiếp cận mới thực hiện định hướng thuốc đặc thù hơn tới các tế bào ung thư (chẳng hạn như liệu pháp liposomal và liệu pháp monoclonal antibody) để giảm hiểu tác dụng phụ.
  • Thuốc để giảm tác dụng phụ, như colony-stimulating factors, chất bảo vệ chống hoá trị liệu (chẳng hạn dexrazoneamifostine), và anti-emetics (để giảm buồn nôn và nôn).
  • Các chất khắc phục sự kháng nhiều loại thuốc (khi ung thư không có phản ứng với các thuốc điều trị thông thường nữa).

Liệu pháp lipsomal là một kỹ thuật đưa các hoá chất trị liệu [vào] bên trong các lipsome (các viên chất béo tổng hợp). Lipsome, hay các viên bọc chất béo, cho phép các hoá chất thâm nhập một cách chọn lọc hơn các tế bào ung thư và giảm thiểu các tác dụng phụ (như mất tóc, buồn nôn và nôn). Ví dụ về thuốc với liệu pháp lipsomalDoxil (dạng nang của doxorubicin) và Daunoxome (dạng nang của daunorubicin).

Đầu thế kỷ 20, chỉ các khối ung nhỏ và tập trung đủ cục bộ có thể loại bỏ hoàn toàn bằng phẫu thuật là chữa trị được. Sau đó, xạ trị được sử dụng sau giải phẫu để kiếm chế sự phát triển các khối u nhỏ chưa được loại bỏ bởi phẫu thuật. Cuối cùng, hoá trị liệu đã được đưa vào để diệt sự phát triển của các khối u nhỏ đã lan ra ngoài tầm kiểm soát của các nhà phẫu thuật và xạ trị. Hoá trị liệu được sử sau phẫu thuật để phá huỷ tất cả các tế bào ung thư còn lại trong cơ thể được gọi là liệu pháp phụ trợ (adjuvant therapy). Liệu pháp phụ trợ được kiểm tra lần đầu tiên trên ung thư vú và đã thể hiện hiệu quả. Sau đó liệu pháp này cũng được sử dụng ở ung thư ruột kết, ung thư tinh hoàn và các loại ung thư khác.

Một phát hiện lớn nữa là sự ưu việt của việc sử dụng nhiều loại chất hoá trị (gọi là hoá trị liệu kết hợp) so với các chất riêng rẽ. Một vài loại u bạch cầu (leukemia) phát triển rất nhanh và u hạch bạch huyết (lyphoma) (tương ứng, các khối u liên quan đến tế bào tuỷ xương và các hạch bạch huyết) phản ứng rất tốt với hoá trị kết hợp, và thử nghiệm lâm sàng đã đưa đến cải thiện dần dần các phương pháp kết hợp thuốc. Nhiều loại trong những u này ngày nay có thể được chữa khỏi với hoá trị liệu kết hợp hợp lý.

Các hướng tiếp cận với điều trị đã trở nên khoa học hơn khi người ta đưa vào các thử nghiệm lâm sàng trên một nền tảng quốc tế. Các thử nghiệm lâm sàng này so sánh các liệu pháp mới với các liệu pháp tiêu chuẩn và cho những hiểu biết tốt hơn về hiệu quả điều trị cũng như các rủi ro. Các thử nghiệm lâm sàng kiểm nghiệm các lý thuyết về ung thư ung thư xác lập từ các phòng thí nghiệm khoa học cơ bản, đồng thời kiểm nghiệm các ý tưởng rút ra từ các quan sát lâm sàng trên bệnh nhân ung thư. Chúng cần thiết cho tiến trình [ứng dụng].

(còn tiếp)

No comments:

Post a Comment