Wednesday, June 11, 2014

Lịch sử ung thư (4)

Phỏng dịch từ bài The History of Cancer from NCI. Một số thuật ngữ y học có thể không sát do người dịch không thông thạo về y học, bạn đọc có thể tìm đọc bản gốc tại website của NCI.

Quét và phát hiện sớm ung thư

Quét dùng để chỉ các thử nghiệm và kiểm tra dùng để tìm một bệnh tật nào đó, nói riêng là ung thư, ở những người không có triệu chứng của bệnh. Kiểm tra sớm nhất tược sử dụng rộng rãi là phép thử Pap. Phép thử này được phát triển bởi Georgo Papanicolaou với vai trò một phương pháp để tìm hiểu chu kỳ kinh nguyệt. Papanicolaou đã sớm nhận ra thế mạnh của nó trong việc tìm các ung thư cổ tử cung sớm và trình báo phát hiện của mình vào năm 1923. Mới đầu, các bác sĩ đều rất nghi hoặc, và phép thử không được phổ biến rộng rãi cho đến khi hội Ung bướu Mỹ (ACS) ủng hộ phát triển phép thử trong những năm đầu 1960. Từ thời gian đó, tỷ lệ tử vong với ung thư cổ tử cung ở Mỹ giảm khoảng 70%.

Phương pháp chẩn đoán X-quang hiện đại đã phát triển vào những năm cuối 1960, và được lần đầu tiên chính thức khuyến khích bỏi ACS vào năm 1976.

Hướng dẫn ngày này của ACS bao gồm các phương pháp thu nhận ung thư sớm ở cổ tử cung, vú, ruột kết và ruột thẳng, nội mạc tử cung, tuỵ, cùng với phương pháp khám tổng thể (check-up) phụ thuộc vào tuổi và giới tính, có thể bao gồm xét nghiệm ung thư ở tuyến giáp, miệng, da, hạch bạch huyết, tinh hoàn và buồng trứng.

Sự tiến triển của trị liệu: phẫu thuật

Các thầy thuốc và nhà giải phẫu thời cổ đại đã biết rằng ung thư thường quay trở lại sau khi đã được cắt bỏ. Thầy thuốc La Mã Celsus viết, "Sau khi cắt bỏ, thậm chí khi vết sẹo đã hình thành, thế mà bệnh vẫn trở lại."

Galen là một bác sĩ người La Mã sống vào thế kỷ thứ hai, người mà sách vở đã được lưu truyền nhiều thế kỷ. Ông đã được coi là quyền lực tối cao của dược học trong hơn một ngàn năm. Galen quan niệm về ung thư khá giống như quan niệm của Hippocrate, và cách nhìn của ông đã đặt một khuôn mẫu cho việc xử lý ung bướu qua hàng thế kỷ: ông coi bệnh nhân đã hết cách chữa khi chẩn đoán ung thư được ấn định.

Mặc dù ngành thuốc phát triển và trưởng thành trong một số nền văn minh cổ, rất hiếm có tiến triển nào trong chữa trị ung thư. Hướng tiếp cận đến ung thư đều hầu mang hơi hướng Hippocrate (Hypocaratic) hoặc hơi hướng Galen (Galenic). Ở mức nào đó, niềm tin rằng ung thư không thể chữa trị đã tồn lưu vào tận thế kỷ hai mươi mốt. Quan niệm này đã thắp nỗi sợ hãi vào lòng những người mang bệnh. Có những người, thậm chí đến ngày nay, coi ung thư là vô phương cứu chữa và từ chối đi đến bác sĩ cho đến khi các liệu pháp tối ưu trở nên muộn màng.

Liệu pháp cho ung thư đã trải qua một quá trình phát triển chậm chạp. Từ cổ xưa, người ta đã biết rằng một khi khối u đã lan rộng thì không còn cách chữa trị nào cả, và rằng sự can thiệp còn có thể gây hại. Galen quả đã có viết về liệu pháp phẫu thuật đối với ung thư vú nếu khối u còn ở giai đoạn đầu và có thể được loại bỏ hoàn toàn. Phẫu thuật thời đó hãy còn thô sơ với nhiều phiền phức, trong đó có vấn đề mất máu trong phẫu thuật. Phải đến tận thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, giải phẫu học nói chung và giải phẫu học ung thư nói riêng mới có những bước tiến quan trọng.

Đã có những nhà giải phẫu lớn trước sự phát hiện của kỹ thuật gây mê. John Hunter, Astley Cooper và John Warren trong một thời gian dài đã được tôn sùng với kỹ thuật mổ gọn gàng và chính xác. Nhưng đến khi kỹ thuật gây mê xuất hiện vào năm 1846, giải phẫu đã phát triển nhanh đến độ một trăm năm tiếp đó được biết đến với tên "thế kỷ giải phẫu học" (the century of the surgeon).

Nổi bật là tên tuổi của ba nhà giải phẫu đã có những cống hiến vào kỹ thuật và khoa học và giải phẫu ung thư: Bilroth ở Đức, Handley ở London và Halsted ở Baltimore. Cống hiến của họ đã đưa đến phẫu thuật khối u thiết kế để loại bỏ toàn bộ khối u cùng với những hạch bạch huyết (lymph nodes) trong vùng cư trú của khối u.

William Stewart Halsted, giáo sư giải phẫu học ở Đại học Johns Hopkins, đã phát triển căn bản giải phẫu vú sâu (radical mastectomy) trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 19. Công trình của ông dựa một phần trên công trình của W. Sampson Handley, là người đã tin tưởng rằng ung thư lan rộng ra thông qua xâm chiếm từ sự lớn mạnh ban đầu. (Khái niệm tổng quát của giải phẫu vú căn bản có thể lần ngược lại đến Lorenz Heister với những ý tưởng của giải phẫu vú (mastectomy) và sơ phẫu vú (lumptectomy) trong cuốn Chirurgie công bố năm 1719.) Halsted đã không tin rằng ung thư lan rộng thông qua hệ tuần hoàn: "Mặc dù có vẻ rõ ràng nó đã xảy ra, tôi vẫn không chắc chắn rằng tôi đã quan sát được sự di căn của ung thư vú thông qua mạch máu." Ông tin rằng ung thư có thể cứu chữa bằng cách trừ khử cục bộ với mức độ triệt để nhất định - nếu ung thư có xuất hiện đâu đó sau này thì đó là một quá trình mới. Niềm tin đó đã hướng ông đến phát triển kỹ thuật phẫu thuật sâu cho ung thư vú (radical mastectomy), và từ đó trở thành cơ sở của phẫu thuật học ung thư trong suốt gần một thế kỷ. Sau đó, năm 1970, các thử nghiệm lâm sàng đã chứng tở rằng phẫu thuật vú nông hơn cũng hiệu quả tương đương với hầu hết các phụ nữ. Ngày này, phẫu thuật sâu hầu như không bao giờ được dùng đến, và "phẫu thuật sâu cải tiến" cũng ít được sử dụng hơn trước đây. Hầu hết phụ nữ bị ung thư vú ngày nay được sơ phẫu (lumpectomy) và sau đó sử dụng xạ trị.

Cùng thời gian Halsted và Handley đang phát triển kỹ thuật giải phẫu sâu, một nhà giải phẫu khác đã đặt câu hỏi, "Điều gì quyết định cơ quan nào sẽ phải hứng chịu khi có sự lan rộng của ung thư?" Nhà giải phẫu học người Anh Stephen Paget, kết luận rằng tế bào ung thư lan rộng nhờ vào các huyết mạch đến các bộ phận của cơ thể, nhưng chúng chỉ có thể phát triển ở một vài bộ phận. Với một bước nhảy bậc logic xuất sắc, ông đã phác hoạ sự tương tự giữa sự di căn ung thư với hạt giống "được gieo rắc theo tất cả các hướng, nhưng chúng chỉ có thể sống và phát triển trên loại đất tương thích."

Giả thiết của Paget rằng tế bào từ một khối u ban đầu lan rộng thông qua huyết mạch nhưng chỉ có thể phát triển ở một số bộ phận chứ không phải tất cả là rất chính xác và tinh tế - giả thiết đã được khẳng định bằng kỹ thuật sinh học phân tử và tế bào hiện đại hơn một trăm năm sau đó. Sự hiểu biết này về di căn trở thành một yếu tố cốt yếu để nhận ra những giới hạn trong liệu pháp phẫu thuật ung thư. Nó thậm chí cho phép các bác sĩ phát triển những liệu pháp hậu phẫu để tiêu diệt tế bào đã lan rộng trong cở thể, kết quả là họ có thể sử dụng ít thao tác phẫu thuật hơn đối với nhiều loại ung thư. Ngày này nhưng liệu pháp này còn có thể sử dụng trước phẫu thuật.

Trong suốt những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, các nhà giải phẫu đã phát triển những sảo thuật cao hơn trong việc giảm thiểu lượng mô thường bị cắt bỏ trong phẫu thuật. Giống như xu hướng chuyển từ phẫu thuật sâu sang sơ phẫu ở vú, tiến bộ cũng xuất hiện trong cắt bỏ xương và các khối u mềm ở cánh tay và chân mà không cần phải cắt bỏ hoàn toàn (amputation) trong nhiều trường hợp, và tránh phải sử dụng hậu môn nhân tạo với nhiều bệnh nhân ung thư trực tràng. Tiến triển này phụ thuộc không chỉ vào những hiểu biết tốt hơn về ung thư như một chứng bệnh, cũng như công cụ phẫu thuật tốt hơn, mà còn phụ thuộc vào sự kết hợp giữa giải phẫu với hoá trị liệu và/hoặc xạ trị.

Mãi đến gần cuối thế kỷ 20, chẩn đoán ung thư thường đòi hỏi "phẫu thuật thăm dò" (exploratory surgery) ở ổ bụng hoặc ngực để bác sĩ có thể lấy mẫu mô dùng kiểm nghiệm. Từ những năm 1970, những tiến bộ trong siêu âm (sonography), chụp cắt lớp thuật toán - dò quét CT (computed tomography - CT scans), chụp ảnh cộng hưởn từ - dò quét MRT (magnetic resonance imaging - MRI scans), và chụp cắt lớp dương tử xạ - dò quét PET (positron emission tomography - PET scans) đã thay thế cho phẫu thuật thăm dò. Phương pháp dò quét CT và dò quét siêu âm cũng có thể được dùng để điều khiển kim sinh thiết đến các khối u.

Ngày nay, các bác sĩ sử dụng các dụng cụ với kỹ thuật cáp quang và máy ghi hình siêu nhỏ để quan sát bên trong cơ thể. Các nhà phẫu thuật có thể phẫu thuật với các dụng cụ giải phẫu đặc biệt đưa vào nhờ những ống nhỏ xuyên qua da. Những dụng cụ này có thể dùng để quan sát và thao tác bên trong ổ bụng (laparoscopic surgery) hoặc ngực (thorascopic surgery). Một dụng cụ tương tự, đèn nội soi, cũng có thể được sử dụng để loại bỏ một số khối u ở ruột kết, thực quản, hoặc bàng quan bằng cách xâm nhập thông qua các phần mở tự nhiên của cơ thể như miệng hoặc hậu môn.

Các phương pháp ít can thiệp trực tiếp hơn phá huỷ khối u mà không qua cắt bỏ đang được nghiên cứu hoặc/và sử dụng. Hàn phẫu hoặc hàn trị liệu, bào mòn lạnh (cryosurgery hay cryotherapy, cryoablation) sử dụng bụi phun nitro lỏng hoặc những đầu dò rất lạnh để làm đông cứng và tiêu diệt các tế bào bất thường. Laser cũng có thể dùng để cắt qua các mô (thay do việc dùng dao phẫu thuật hoặc làm bay hơi (đốt cháy hoặc huỷ diệt) ung thư cổ tử cung (cervix), thanh quản (larynx), gan, trực tràng (rectum), da hoặc các bộ phận khác. Phương pháp bào mòn bằng sóng vô tuyến truyền sóng vô tuyến vào một antena (ăng-ten) nhỏ đặt trong khối u làm nóng và tiêu diệt chúng.

(còn tiếp)

No comments:

Post a Comment